SECC, TP. Hồ Chí Minh
13-16/11/2024

Nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng, gia tăng xuất khẩu sản phẩm cá ngừ sang Anh

Tại thị trường Anh, cá ngừ được bán dưới nhiều loại sản phẩm như: sơ chế, chế biến sẵn, sushi, dạng có sốt, dạng bánh hay tẩm bột… Để gia tăng hơn thị phần mặt hàng này, doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ Việt Nam bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cần chủ động tìm hiểu thông tin thị trường, nhu cầu, thị hiếu người Anh, các quy định chính sách của UK… để tận dụng hiệu quả các ưu đãi khi xuất khẩu sang thị trường này.

Những cam kết, quy định của UK với mặt hàng cá ngừ trong UKVFTA

Cá ngừ của Việt Nam đang có lợi thế tại thị trường này nhờ những ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Theo cam kết tại Hiệp định UKVFTA, về cam kết thuế quan, Hiệp định này có cơ chế tiếp nối Hiệp định EVFTA, đồng nghĩa với việc mức thuế nhập khẩu đối với các loại sản phẩm cá ngừ tươi và đông lạnh sẽ nhanh chóng được loại bỏ.  Mức thuế cho sản phẩm cá ngừ loin đông lạnh hoặc phi lê sẽ được loại bỏ trong khoảng thời gian 3 năm từ mức 18% về 0%.

Đối với cá ngừ chế biến sử dụng cho cá ngừ đóng hộp - tỉ lệ cơ bản 24% sẽ được giảm trong lịch trình 7 năm.

Đối với cá ngừ đóng hộp và bao gói, mức hạn ngạch sẽ là 11.500 tấn mỗi năm sẽ được miễn thuế. Sau đó, mức thuế như ban đầu 20,5% sẽ được áp dụng, mức thuế này sẽ giảm 3,5% mỗi năm. Với thoả thuận này, các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam đang có lợi thế tại thị trường Anh

Để được hưởng mức thuế ưu đãi như trong Hiệp định UKVFTA đã cam kết, các sản phẩm thủy sản của Việt Nam phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ. Quy định về Quy tắc xuất xứ trong UKVFTA tương tự với EVFTA, với tiêu chí xuất xứ đối với thủy sản nguyên liệu và thủy sản chế biến trong UKVFTA là xuất xứ thuần túy. Điều này có nghĩa là thuỷ sản thô, sơ chế và thuỷ sản chế biến xuất khẩu của Việt Nam được coi là có xuất xứ theo Hiệp định UKVFTA khi nguyên liệu thuỷ sản dùng trong quá trình sản xuất có xuất xứ thuần tuý từ Việt Nam (được sinh ra hoặc nuôi dưỡng, đánh bắt và chế biến hoàn toàn tại Việt Nam), không được phép nhập khẩu từ nước thứ ba ngoài Hiệp định.

Có thể thấy, trong năm 2021, năm đầu thực thi Hiệp định, thị trường này nhập khẩu thủy sản trị giá khoảng 3,1 tỷ bảng Anh, tương đương hơn 3,7 tỷ USD vào năm 2021. Trong đó, cá ngừ đứng vị trí thứ hai với tỷ trọng 16% tổng nhập khẩu thủy sản của thị trường này với 113,5 nghìn tấn, chiếm thị phần khá khiêm tốn với khoảng 2%.

Tuy nhiên, sau một thời gian tăng trưởng tốt, xuất khẩu cá ngừ Việt Nam sang Anh có dấu hiệu chững lại. Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 3,6 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ. Mặc dù trong tháng 6/2024, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này đã tăng 56%, đạt 742 triệu USD, tuy nhiên, mức tăng trưởng cao trong 2 tháng qua vẫn không đủ bù đắp lại lượng sụt giảm trước đó.

Thịt/loin cá ngừ đông lạnh mã HS03 vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường này, chiếm tới 92%. Năm nay, Anh giảm nhập khẩu thịt/loin cá ngừ đông lạnh từ Việt Nam. Trong khi đó, nhập khẩu các sản phẩm khác lại có xu hướng tăng.

Việt Nam hiện đang là nguồn cung thịt/loin cá ngừ đông lạnh mã HS03 ngoài khối EU lớn thứ 2 cho thị trường Anh, sau Hàn Quốc. Hiện Anh cũng đang giảm nhập khẩu nhóm sản phẩm này.

Cơ hội gia tăng xuất khẩu sản phẩm cá ngừ chế biến

Theo VASEP, tại thị trường Anh, cá ngừ được bán dưới nhiều loại sản phẩm như: sơ chế, chế biến sẵn, sushi, dạng có sốt, dạng bánh hay tẩm bột… Trong đó, các sản phẩm cá ngừ đóng hộp và đóng túi được tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ nhóm sản phẩm này đang có xu hướng giảm từ năm ngoái. Trái lại, tiêu thụ các sản phẩm cá ngừ dạng sushi hay cá ngừ tẩm bột có xu hướng tăng. Do đó, đây là cơ hội cho các nước gia tăng xuất khẩu các sản phẩm cá ngừ chế biến và đóng hộp.

Theo Cục Xuất nhập khẩu, xét về các sản phẩm chế biến, đóng hộp thì cá ngừ là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng Anh. Tại Anh, cá ngừ là một loại thực phẩm được sử dụng chủ yếu trong các món ăn nhanh, như bánh mì kẹp, hay trong nhiều bữa ăn khi đi du lịch.

Theo thống kê của cơ quan Seafish, 69% lựa chọn của người dân Anh trong nhóm thủy sản đóng hộp là các sản phẩm cá ngừ. Ngoài ra, do đặc tính của dòng cá béo khá phù hợp với nhiều hình thức chế biến, một số sản phẩm cá ngừ chế biến khác của cá ngừ như salad, sốt phủ ăn kèm, bánh mì,… cũng rất được ưa chuộng tại thị trường này. Tương tự như các thị trường khác tại khu vực châu Âu, người tiêu dùng tại Vương quốc Anh cũng có xu hướng chú trọng tới không chỉ nguồn gốc, chất lượng sản phẩm, mà còn quan tâm tới các yêu tố về lao động, môi trường, hay tính bền vững của chuỗi giá trị trong sản xuất, cung ứng sản phẩm. Các yếu tố cơ bản khác như giá cả, cách thức chế biến và tính tương đồng trong bữa ăn, địa điểm sử dụng, cũng vẫn được quan tâm.

Tuy nhiên, cũng giống như Việt Nam, Ecuador đã ký được Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Anh. Điều này đang tạo điều kiện thuận lợi cho nước này gia tăng xuất khẩu sang Anh. Với đội tàu hùng mạnh, nguồn cung cá ngừ có xuất xứ thuần túy cho Ecuador khá dồi dào. Do đó, Ecuador có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này.

Trong khi đó, theo VASEP, Việt Nam sản lượng đánh bắt vốn dĩ đã thấp hơn nước bạn nhiều do năng lực đánh bắt của đội tàu thấp hơn. Cộng với đó, quy định giới hạn về giới hạn kích cỡ cá ngừ vằn được phép khai thác đang khiến cho sản lượng ngày càng thấp hơn. Doanh nghiệp không có đủ nguồn cung cá ngừ vằn - nguyên liệu chủ lực của ngành chế biến và xuất khẩu cá ngừ đóng hộp – có xuất xứ thuần túy để sản xuất và xuất khẩu.

Vì vậy, để thúc đẩy mặt hàng này sang UK, theo các chuyên gia, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, phát triển các hệ thống sản xuất và chế biến hiện đại, từ đó tối ưu hóa quá trình sản xuất để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng cho sản phẩm, giúp thủy sản Việt tiến dần tới các tiêu chuẩn quốc tế và tạo lợi thế cạnh tranh. Cùng với đó, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu và gia tăng các sản phẩm chế biến sâu. Lựa chọn phân khúc thị trường và kênh phân phối phù hợp với sản phẩm và quy mô của doanh nghiệp; chú trọng tìm hiểu thị hiếu, đặc trưng thị trường.

Ví dụ, nếu sản phẩm đã có thương hiệu nên tiếp cận phân khúc thị trường bán lẻ chuyên ngành sẽ được giá cao hơn nhưng đòi hỏi chất lượng sản phẩm ổn định thay vì bán sản phẩm cho các nhà bán lẻ đã có thương hiệu sau đó họ sẽ đóng gói dưới thương hiệu của họ, hoặc bán sản phẩm thô.